Kinh tế tập thể sau 20 năm thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả

Kinh tế tập thể luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, tạo điều kiện phát triển phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng khẳng định “kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Tại Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002, thống nhất quan điểm: phát triển Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên và lợi ích tập thể, coi trọng lợi ích xã hội của thành viên, góp phần xoá đói, giảm nghèo, tiến lên làm giàu.

Việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002, của Ban chấp hành Trung ương Đảng, trong bối cảnh tỉnh Trà Vinh còn rất nhiều khó khăn, điểm xuất phát kinh tế thấp; kết cấu hạ tầng còn thiếu, yếu và chưa đồng bộ; ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, hạn, mặn, dịch bệnh, các hình thức sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, tiêu thụ sản phẩm không ổn định, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn.

Sau khi Trung ương ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW, Tỉnh ủy đã ban hành chương trình hành động thực hiện theo Kế hoạch số 42-KH/TU ngày 31/7/2013 về Kết luận số 56-KL/TW ngày 21/02/2013 của Bộ Chính trị đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX “Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”; Nghị quyết số 16-NQ/TU ngày 09/9/2014 về xây dựng và phát triển kinh tế tập thể tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2015 – 2020.

Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển lĩnh vực KTTT bao gồm 17 văn bản về chỉ đạo, lãnh đạo, quản lý và hỗ trợ HTX. Các ban ngành và địa phương phối hợp chặt chẽ, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và tạo động lực để kinh tế tập thể phát triển bền vững và mang lại lợi ích cho các thành viên HTX. Cấp ủy, chính quyền đề ra nhiệm vụ củng cố tổ hợp tác và hợp tác xã hiện có, tiếp tục phát triển rộng rãi kinh tế hợp tác xã với nhiều hình thức, quy mô, trình độ khác nhau trong các ngành, lĩnh vực địa bàn có điều kiện đưa công tác phát triển kinh tế tập thể vào Nghị quyết, kế hoạch hoạt động định kỳ và thường xuyên.

Tổ chức quán triệt sâu rộng trong nội bộ và quần chúng nhân dân, tạo sự chuyển biến rõ nét trong nhận thức của cán bộ đảng viên và nhân dân về vị trí vai trò của kinh tế tập thể đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Số lượng và hiệu quả của THT và Hợp tác xã ngày càng tăng về doanh thu và lợi nhuận; liên kết hợp tác đa dạng góp phần hình thành chuỗi liên kết sản xuất và chế biến; tạo việc làm và thu nhập thường xuyên cho người lao động, góp phần xây dựng nông thôn mới. Xu thuế liên kết hợp tác giữa các HTX với các cơ quan nghiên cứu khoa học, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau được tiếp tục mở rộng… Các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tập thể tiếp tục được thể chế hóa và hướng dẫn thực hiện là động lực tạo điều kiện cho kinh tế tập thể phát triển.

Qua 20 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX trên địa bàn tỉnh ngày càng phát triển, đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Số lượng HTX phát triển ngày càng nhiều, thành viên tham gia ngày càng đông, doanh thu, lợi nhận tăng cao, đời sống của thành viên HTX không ngừng được cải thiện.  

Cụ thể: Năm 2001, Tỉnh có 91 HTX trong đó có 33 HTX nông nghiệp, 43 HTX phi nông nghiệp và 15 Quỹ TDND với tổng số vốn điều lệ là 17.447.684.000 đồng, 18.770 thành viên giải quyết cho 5.037 lao động. Đến nay hiện có 01 Liên hiệp HTX, 170 HTX đang hoạt động (trong đó có 126 HTX nông nghiệp, 28 HTX phi nông nghiệp, 16 quỹ tín dụng); doanh thu bình quân của HTX đến năm 2020 là khoảng 2,2 tỷ đồng/năm; lợi nhuận bình quân 280 triệu đồng/năm; thu nhập bình quân thành viên/người lao động 36,84 triệu đồng/năm. Số lượng cán bộ quản lý HTX là khoảng 756 người, trong đó số lượng cán bộ quản lý đạt trình độ sơ, trung cấp là 75 người; số lượng cán bộ quản lý đạt trình độ cao đẳng, đại học trở lên là 294 người.

So với giai đoạn trước khi Trung ương ban hành NQ, nhận thức của cán bộ cũng như nhân dân từng bước có bước chuyển biến tốt. Tổ chức bộ máy quản lý theo hướng tinh gọn,  một bộ phận cán bộ quản lý HTX đã được bồi dưỡng tập huấn kiến thức mới để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, việc phân công trách nhiệm trong nội bộ HTX được cụ thể và sát thực hơn trước. Một số HTX làm tốt dịch vụ đầu vào, đầu ra cho hộ thành viên, cải tiến phương thức hoạt động, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ phát triển theo đúng định hướng của tỉnh. Bước đầu đã hình thành được một số HTX kiểu mới theo hướng liên doanh liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cho thành viên. Vai trò của HTX trong kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã được nâng lên, hạ tầng nông thôn phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động phát triển sản xuất kinh doanh, từng bước nâng cao thu nhập và đời sống người dân.

Trong quá trình thực hiện, từ tỉnh đến các huyện, thị xã, thành phố thành lập Ban Chỉ đạo đổi mới, phát triển KTTT cấp tỉnh, đồng thời phân công cụ thể trách nhiệm của từng thành viên của Ban Chỉ đạo; hàng năm đều có xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch và đánh giá kết quả đạt được, trong đó có đánh giá trách nhiệm của từng thành viên. Bên cạnh đó, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh Trà Vinh và các tổ chức đoàn thể, chính trị đã tích cực tuyên truyền, vận động, xây dựng, củng cố, phát triển KTTT, HTX, phân công cán bộ phối hợp, hỗ trợ Tổ hợp tác và HTX. Với sự chỉ đạo, vào cuộc quyết liệt như trên, tỉnh đã kịp thời cụ thể hóa các chính sách của Trung ương, ban hành các chính sách đặc thù để hỗ trợ các HTX phát triển, kết quả thực hiện các chính sách cụ thể như sau:

- Chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực tại Quyết định số 04/2017/QĐ-UBND ngày 05/4/2017 của UBND tỉnh đã giúp thu hút 215 lao động có trình độ kỹ thuật cho HTX; đội ngũ quản lý và người lao động của HTX được nâng cao trình độ, tay nghề với hơn 940 lớp tập huấn, bồi dưỡng, chuyển giao khoa học, kỹ thuật được tổ chức và trên 43.200 lượt học viên tham dự;

- Chính sách xúc tiến thương mại, hỗ trợ HTX phát triển thị trường do Sở Công thương chủ trì, phối hợp Liên minh HTX tỉnh cùng với các địa phương tổ chức thực hiện thông qua các đợt xúc tiến thương mại, các hội chợ trong và ngoài tỉnh như Đắk Lắk, Bến Tre, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần Thơ, Kiên Giang,… Nhiều biên bản ghi nhớ hợp tác, hợp đồng nguyên tắc được ký kết và triển khai giúp HTX có thêm thị trường tiêu thụ. Ngoài ra, tỉnh còn hỗ trợ HTX tham gia các sàn giao dịch thương mại, trong đó có sàn thương mại điện tử.

- Chính sách hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ do Sở Khoa học và Công nghệ chủ công thực hiện với nhiều mô hình, đề tài đã được chuyển giao công nghệ như mô hình trồng cam sành và đậu phộng đạt tiêu chuẩn VietGAP, dừa sáp nuôi cấy phôi, trồng bưởi tiết kiệm nước,… Ngoài ra, tỉnh còn hỗ trợ đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý “Trà Vinh” cho sản phẩm dừa sáp; xây dựng bảo hộ và quản lý nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm lúa, gạo hữu cơ huyện Châu Thành; Tem QR code cho các sản phẩm: gạo của HTX Nông nghiệp Dân Tiến; bưởi da xanh của HTX bưởi da xanh Hùng Hòa; dưa lưới của HTX Nông nghiệp Phú Cần; gạo hữu cơ của HTX Nông nghiệp Rạch Lọp,… Đến nay, hỗ trợ đăng ký tạo lập, đăng ký bảo hộ cho 15 HTX, 17 Tổ hợp tác trong các lĩnh vực sản xuất gạo, nuôi nghêu, trồng rau củ quả, chế biến thủy sản, sản xuất thủ công mỹ nghệ,…

- Về chính sách về hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, HĐND tỉnh ban hành 02 Nghị quyết đặc thù gồm Nghị quyết số 20/2017/NQ-HĐND ngày 13/7/2017 và Nghị quyết số 56/2018/NQ-HĐND; đến nay có 15 HTX được thụ hưởng với tổng mức đầu tư trên 15,6 tỷ đồng, trong đó ngân sách hỗ trợ trên 6,6 tỷ đồng.

Ngoài ra còn có Chính sách tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã được thực hiện thông qua việc thành lập và vận hành Quỹ hỗ trợ phát triển HTX tỉnh Trà Vinh; giải ngân cho vay với số tiền 5,28 tỷ đồng hỗ trợ 11 HTX mua sắm thiết bị, máy móc, phương tiện chuyên chở, xây dựng nhà xưởng,… Chính sách hỗ trợ thành lập mới hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã từ năm 2012 đến nay có 178 HTX được thụ hưởng với kinh phí 5,1 tỷ đồng; Chính sách hỗ trợ đất đai có 07 HTX được chính quyền cho mượn đất xây trụ sở làm việc, 03 HTX được thuê bãi bồi, 03 HTX được miễn giảm tiền thuê đất.

* Một số mô hình HTX nổi bật, điển hình

1. HTX thương mại dịch vụ Châu Thành (HTX TM Châu Thành) được thành lập năm 2006 với 39 thành viên, vốn góp 155 triệu đồng, là mô hình HTX khai thác quản lý chợ đầu tiên của tỉnh. Ngành nghề chính của HTX là quản lý kinh doanh khai thác chợ. HTX đã đầu tư củng cố lại cơ sở vật chất, hạ tầng, trong đó đầu tư sửa chữa một số công trình mới như nhà lồng chợ ẩm thực, mái che bán hàng ăn uống, mái che cho những hộ bán rau quả, thiết bị phòng cháy, chữa cháy... nhằm tạo điều kiện cho bà con tiểu thương kinh doanh được thuận lợi. Ngoài việc tổ chức chặt chẽ, hợp lý các điểm kinh doanh của 160 hộ tiểu thương trong chợ để hàng hóa được sắp xếp gọn gàng theo đúng quy định, HTX còn tổ chức tín dụng nội bộ để hỗ trợ cho các thành viên, hộ tiểu thương vay vốn, phục vụ sản xuất kinh doanh. Bình quân hàng năm HTX hỗ trợ vốn cho thành viên, các hộ tiểu thương và hộ mua bán nhỏ trong chợ vay với số tiền trên 3 tỷ đồng. Doanh thu hàng năm trên 200 triệu đồng, lợi nhuận đạt trên 19% vốn góp, thu nhập của bà con thành viên cũng từ đó được cải thiện.

2. HTX nông nghiệp Phú Mỹ Châu (xã Mỹ Chánh): thành lập vào năm 2014, ban đầu chỉ có 30 thành viên vốn điều lệ 100 triệu đồng, giải quyết việc làm cho 20 lao động. Qua hơn 06 năm hoạt động, số lượng thành viên của HTX tăng gấp 4 lần; vốn điều lệ tăng hơn 17 lần; giải quyết việc làm thường xuyên cho hơn 60 lao động. Tổng diện tích sản xuất của các thành viên HTX hiện có 47 ha sản xuất lúa giống và 223 ha sản xuất lúa chất lượng cao; mở thêm một số dịch vụ mới để hỗ trợ cho kinh tế hộ thành viên như dịch vụ bơm tưới, phân bón, dịch vụ phun thuốc trừ sâu, tiêu thụ lúa hàng hoá. Ngoài ra HTX còn liên kết với Viện lúa Đồng bằng Sông Cửu Long, viện khoa học nông nghiệp miền Nam, Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh, Trung tâm khuyến nông Trà Vinh, Sở Khoa học công nghệ Trà Vinh,... tổ chức triển khai, hướng dẫn quy trình sản xuất giống, sản xuất lúa thương phẩm đến 100% hộ thành viên trong HTX. Hàng năm, HTX đều ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm lúa giống và lúa thương phẩm cho 100% thành viên trong HTX và ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp.

3. HTX NN Long Hiệp, xã Long Hiệp thành lập vào tháng 8 năm 2018 với 52 thành viên, số vốn điều lệ 700 triệu đồng, qua 3 năm hoạt động số thành viên tăng lên 72, vốn điều lệ tăng 2,86 tỷ đồng; giải quyết được hơn 30 lao động thời vụ, 6 lao động chuyên trách tại HTX, đồng hành cùng địa phương xây dựng tiêu chí 13 nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo bền vững, HTX tham gia nhiều hoạt động an sinh tại tỉnh nhà với hơn 50 lượt đồng hành cùng Đoàn, Hội, các tổ chức chính trị xã hội với số tiền và hiện vật lên đến hàng trăm triệu đồng. HTX được vinh dự nhận nhiều khen thưởng từ Trung ương đến địa phương qua các hoạt động thiện nguyện, đóng góp an sinh xã hội và phòng chống dịch bệnh Covid 19. Hoạt động chủ yếu của HTX là sản xuất gạo hữu cơ, thương hiệu Hạt Ngọc Rồng đã có mặt trên 20 tỉnh thành trong cả nước, ký kết được hơn 30 hợp đồng cung ứng gạo cho các tổ chức cá nhân với số lượng lên đến 100 tấn, và sản phẩm có mặt hầu hết trên các sàn thương mại điển tử, các kênh giao dịch online, chuỗi cửa hàng thực phẩm an toàn, chuỗi cửa hàng OCOP trên khắp cả nước, sản phẩm của HTX được UBND tỉnh Trà Vinh công nhận sản phẩm OCOP 4 sao, được Cục công nghiệp địa phương - Bộ Công Thương chứng nhận sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp khu vực. Top 4 gạo ngon thương hiệu Việt trong Festivanl lúa gạo ĐBSCL lần thứ tư, top gạo ngon Việt Nam do hiệp Hội Lúa Gạo Việt Nam tổ chức.

Đây là những HTX đi đầu trong thực hiện chủ trương phát triển, đổi mới, xây dựng HTX kiểu mẫu, xây dựng kinh tế nông thôn phát triển, đóng góp tích cực vào nhiệm vụ phát triển KTXH, xây dựng nông thôn của tỉnh nhà.

Bên cạnh những thành tựu, kết quả tích cực đạt được như nêu trên, quá trình thực hiện phát triển kinh tế tập thể, HTX trên địa bàn tỉnh còn những tồn tại, hạn chế như sau:

- Vai trò quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể, HTX từng lúc, từng nơi chưa được phát huy tốt; Một số chính sách chưa thu hút được HTX quan tâm, đăng ký thụ hưởng như chính sách về đất đai, thuế, ưu đãi tín dụng. Nguyên nhân do một số sở ngành và bộ phận địa phương chưa quan tâm đúng mức; lúc đầu tập trung chỉ đạo nhưng về sau buông lỏng; thiếu kiểm tra, giám sát, chưa chủ động nắm bắt khó khăn, hỗ trợ HTX; công tác thông tin báo cáo đôi lúc chưa kịp thời; còn xảy ra trường hợp cán bộ chuyên môn chưa nắm rõ Luật Hợp tác xã năm 2012 và các văn bản quy định liên quan.

- Tốc độ phát triển thành phần kinh tế tập thể chậm so với nhịp độ phát triển chung của các thành phần kinh tế khác, chưa thể hiện rõ nét tính chất của mô hình HTX kiểu mới. Nguyên nhân do hầu hết HTX có quy mô nhỏ, khả năng cạnh tranh thấp, lợi nhuận khiêm tốn; chưa có tài sản thế chấp vay vốn; năng lực của Ban lãnh đạo HTX chưa đáp ứng yêu cầu.

- Nhiều Tổ hợp tác chưa được thụ hưởng từ chính sách hỗ trợ theo Nghị định số 77/2019/NĐ-CP ngày 10/10/2019 của Chính phủ về Tổ hợp tác. Nguyên nhân do phần lớn Tổ hợp tác phát triển tự phát, chưa đăng ký hoạt động.

 

* Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém đó là:

- Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể chưa chặt chẽ; công tác thông tin, báo cáo thiếu kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các HTX, THT đặt ra chậm giải quyết.

- Các HTX nông nghiệp đều thiếu vốn để sản xuất, kinh doanh. Một số HTX chưa có trụ sở riêng, không có tài sản thế chấp nên khó tiếp cận các nguồn vốn vay ngân hàng.

- Năng lực quản lý, điều hành của Ban Giám đốc, các thành viên quản trị của HTX chưa đủ kiến thức, kỹ năng quản lý điều hành mở rộng quy mô sản xuất và liên kết với thị trường tìm đầu ra sản phẩm.

- Cán bộ quản lý nhà nước lĩnh vực kinh tế tập thể ở địa phương chưa bố trí được cán bộ chuyên trách quản lý về kinh tế tập thể, chủ yếu là kiêm nghiệm nên việc tham mưu đề xuất các chủ trương, cơ chế, chính sách; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho HTX, THT còn hạn chế, không kịp thời.

* Bài học kinh nghiệm

- Phải có sự quan tâm lãnh chỉ đạo quyết liệt, thường xuyên của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, sự phối hợp tích cực của các Sở, ngành và chính quyền địa phương đối với quá trình phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX;

Công tác chỉ đạo, điều hành và lãnh đạo tổ chức thực hiện phải đồng bộ, thống nhất, xuyên suốt, sát thực tiễn và phù hợp với thực trạng phát triển KTTT, định kỳ có sơ tổng kết nhằm kịp thời khắc phục những tồn tại, yếu kém, giải quyết khó khăn vướng mắc.

 Việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển KTTT cần cụ thể hóa thành các kế hoạch, lộ trình triển khai cụ thể và phải được quán triệt từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã kịp thời

HTX phải phát huy nội lực, chủ động, tích cực xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, hợp tác liên doanh, liên kết, hình thành nhiều mối liên kết đầu vào, đầu ra và xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu.

Trên cơ sở đánh giá các kết quả đạt được, nhìn nhận các thiếu sót, tồn tại và các kinh nghiệm như nêu trên, trong thời gian tới tỉnh đề ra một số giải pháp trọng tâm phát triển kinh tế tập thể, HTX như sau:

1. Đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết, của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về KTTT, mô hình HTX kiểu mới gắn với chuổi giá trị, phương pháp vận động và quy trình thành lập HTX cho hội viên các đoàn thể ở cơ sở, với nhiều hình thức tuyên truyền cụ thể, dễ hiểu cho người dân.

2. Triển khai, tổ chức thực hiện các chính sách nhằm khuyến khích phát triển kinh tế tập thể, Hợp tác xã kiểu mới trên địa bàn tỉnh, đồng thời quan tâm, hướng dẫn, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho các Hợp tác xã từ việc tiếp cận các nguồn vốn, đất đai xây dựng cơ sở vật chất để sản xuất, kinh doanh, xây dựng nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đến quảng bá sản phẩm, đào tạo nghề cho thành viên và người lao động.

3. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, HTX thay đổi trong phương thức quản lý phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của địa phương; thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các HTX trên địa bàn. Các cơ quan, đơn vị quản lý Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội tích cực thực hiện các nhiệm vụ đã được phân công liên quan đến kinh tế tập thể; chủ động tham mưu, đề xuất nội dung nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tư vấn, hỗ trợ phát triển HTX, THT, LHHTX.

4. Phát huy vai trò Ban Chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, HTX cấp tỉnh và cấp huyện; tích cực, chủ động rà soát tình hình hoạt động của các HTX trên địa bàn, đưa ra những giải pháp củng cố HTX yếu, kém và định hướng hoạt động cho HTX hoạt động hiệu quả, bền vững. Thường xuyên rà soát, đánh giá phân loại Hợp tác xã để có biện pháp hỗ trợ, tư vấn cụ thể cho từng Hợp tác xã thực hiện tái cơ cấu sản xuất gắn với chuỗi giá trị.

5. Đào tạo, bồi dưỡng tập huấn chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao năng lực cho cán bộ HTX đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

6. Tạo điều kiện thuận lợi cho các Hợp tác xã tiếp cận Quỹ hỗ trợ phát triển Hợp tác xã của tỉnh và Trung ương để đầu tư cơ sở hạ tầng, mua sắm thiết bị máy móc phục vụ sản xuất kinh doanh.

7. Tiếp tục nghiên cứu, ban hành và triển khai các chính sách về KTTT, HTX, đặc biệt chú trọng chính sách hỗ trợ HTX đối với những vùng đồng bào dân tộc Khmer ở vùng nông thôn.

8. Huy động các nguồn vốn xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp,... lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia của Trung ương trên địa bàn huyện như khuyến nông, khuyến công, khuyến ngư, chuyển giao khoa học - kỹ thuật, đào tạo nghề. Khuyến khích các nhà đầu tư liên kết với các Hợp tác xã, tạo động lực thúc đẩy Hợp tác xã phát triển, nhất là vai trò hỗ trợ của các doanh nghiệp bằng nhiều hình thức tạo nên mô hình liên kết sản xuất, kinh doanh khép kín theo hướng nâng cao chuỗi giá trị sản xuất của từng sản phẩm, ngành hàng.

9. Tập trung xây dựng mô hình HTX liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị; mô hình HTX có các hoạt động ứng dụng chuyển đổi số, sản xuất thông minh, ứng dụng công nghệ thông tin, chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP). Đẩy mạnh liên kết giữa các tỉnh lân cận trong liên kết sản xuất nông sản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; trong đó, chú trọng phát triển liên kết giữa nông dân (thông qua HTX) và doanh nghiệp. Kịp thời phát hiện, biểu dương, khen thưởng nhân rộng, các mô hình Hợp tác xã hoạt động có hiệu quả.

10. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất, thực hiện sản xuất theo quy trình VietGap, quy trình sản xuất thông minh nhằm tạo sản phẩm mới, giảm chi phí, tăng năng suất, chất lượng an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường.

11. Tổ chức thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại hàng năm để mở rộng thị trường nguyên liệu, sản phẩm hàng hóa dịch vụ cho các hợp tác xã; tham gia kết nối thị trường, tham gia hội chợ kết nối cung cầu sản phẩm. 

Bài viết: Ngô Thanh Nhanh - Trưởng phòng THKTKG Sở KH&ĐT

Tin khác
1 2 3 4 5 

 





Thống kê truy cập
  • Đang online: 3
  • Hôm nay: 65
  • Trong tuần: 1 069
  • Tất cả: 2493384